Tư vấn thẩm định cổ vật

Trang chủ / Tin Tức / CHÙM ẢNH: BỘ SƯU TẬP LINH VẬT CỔ QUÝ GIÁ NHẤT VIỆT NAM (P2)

CHÙM ẢNH: BỘ SƯU TẬP LINH VẬT CỔ QUÝ GIÁ NHẤT VIỆT NAM (P2)Like 0 162

Chùm ảnh: Bộ sưu tập linh vật cổ quý giá nhất Việt Nam (P2)

...Tiếp...
Không có mô tả ảnh.
Tượng chó đá thời Lê Trung Hưng (trên trái), hổ đá thời Trần (trên phải), nghê đá thời Lê Trung Hưng (dưới).
Chó là linh vật gần gũi với đời sống tâm linh của người Việt Nam, thường được tạc bằng đá trấn giữ trước cổng nhà hoặc cổng đình, đền, miếu… để cầu phúc, trừ tà. Một số nơi có tục thờ Chó.Hổ là loài vật được người Việt linh hóa, biểu trưng cho quyền uy và sức mạnh giống như sư tử. Hổ thường được đặt trấn giữ ở cổng các công trình kiến trúc cổ. Trong điện thờ Mẫu thường có ban thờ Ngũ Hổ tượng trưng cho Ngũ Hành, trấn giữ 5 phương.
Trong hình ảnh có thể có: đồ uống
Hình ngựa có cánh trên bình gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Ngựa có cánh (Pegasus) là ngựa thần biểu tượng cho sự thông thái trong văn hóa phương Tây, được truyền vào Việt Nam từ thời Lê sơ (thế kỷ 15) trên đồ gốm xuất khẩu thông qua đặt hàng của thương nhân phương Tây. Hình tượng này tiếp tục được sử dụng trong trang trí đồ gốm thời Mạc – Lê Trung Hưng.
Không có mô tả ảnh.
Phù điêu tiên cưỡi hạc bằng gỗ thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Hạc vốn là linh vật của đạo Lão, tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, trường sinh bất tử. Tuy nhiên, ở Việt Nam hạc trở thành biểu tượng của cá Phật giáo, Nho giáo… thường được mô tả đứng trên lưng rùa hoặc trong đề tài tiên cưỡi hạc ở đình làng.
Không có mô tả ảnh.
Đèn hình tích tà bằng đồng, thế kỷ 1 – 3.
Tích tà là linh vật huyền thoại có nguồn gốc Á Đông, hình thức giống như sư tử có cánh. Đây là linh vật trấn giữ mang ý nghĩa biểu tượng trừ tà, xua đuổi điều xấu, mang lại tốt lành.
Không có mô tả ảnh.
Bồ lao trên quai chuông đồng của chùa Thanh Long (Thái Bình), thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772).
Theo truyền thuyết, bồ lao là con của rồng  thường được thể hiện dưới dạng rồng hai đầu, thích âm thanh lớn, thích gầm rống, rất sợ cá kình, khi bị cá kình đuổi thì kêu rất to. Người xưa đúc chuông thường tạo hình quai bồ lao, dùi hình cá kình với mong muốn tiếng chuông kêu vang xa, do đó từ “bồ lao” cũng được dùng để chỉ tiếng chuông chùa.
Trong hình ảnh có thể có: ngoài trời
Tay nắm cửa hình tiêu đồ bằng đồng, thế kỷ 1 – 3.
Theo truyền thuyết, tiêu đồ là linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Bởi vậy, tiêu đồ thường được chạm trên tay nắm cửa ra vào, ngụ ý răn đe kẻ lạ, bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.
Không có mô tả ảnh.
Hình thao thiết đúc nổi trên tai thạp đồng, khoảng thế kỷ 2 TCN – 2 SCN.
Theo truyền thuyết, thao thiết là con vật ham ăn vô độ, thậm chí có thể ăn cả cơ thể mình. Vì vậy, hình ảnh thao thiết chỉ là phần đầu với hai chân trước nhìn chính diện trông vừa dữ tợn, vừa uy nghi. Ban đầu, thao thiết được trang trí trên bộ đồ ăn để nhắc nhở phép lịch sự trong ăn uống. Về sau thao thiết xuất hiện trên nhiều loại vật dụng khác, tượng trưng cho sự no đủ, bền vững.
Không có mô tả ảnh.
Hình chim thần Garuda trên mảnh tháp bằng đất nung, thời Lý, thế kỷ 11 – 13.
Garuda là loài chim thần có nguồn gốc từ Ấn Độ, thường được miêu tả như người – chim, tượng trưng cho sức mạnh và chân lý. Ở Việt Nam, Garuda xuất hiện trong nghệ thuật Champa như vật cưỡi của thần Ấn Độ giáo Vishnu. Trong nghệ thuật Phật giáo Đại Việt từ thời Lý (thế kỷ 11 – 13) đến thời Mạc (thế kỷ 16), Garuda là linh vật trấn giữ các góc tháp, đỡ góc bệ thờ hoặc mái đao chùa… Đây là hình tượng tiêu biểu cho sự giao lưu văn hóa Đại Việt – Champa.
Không có mô tả ảnh.
Hình cá hóa rồng trên đĩa gốm nhiều màu thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Cá hóa rồng vốn là truyền thuyết được lưu truyền phổ biến ở Việt Nam, gắn với tích “Ngư dược Vũ môn” của Nho học, tượng trưng cho sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để tiến tới thành công của sĩ tử. Trong nghệ thuật Việt, đề tài cá hóa rồng bắt đầu xuất hiện từ thời Trần (thế kỷ 13 – 14), phổ biến và đạt đến đỉnh cao thời Lê sơ (thế kỷ 15).
Không có mô tả ảnh.
Tượng si vẫn (con kìm) bằng đất nung thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Theo truyền thuyết, si vẫn là con của rồng có đuôi cong, đập sóng thì mưa xuống. Bởi vậy người xưa thường đặt nó trên nóc mái các công trình kiến trúc với ý nghĩa phòng ngừa hỏa hoạn. Ở Việt Nam, nó còn được gọi là con kìm, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu rồng đuôi cá, đầu rồng đuôi si…
Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người
Hình tượng con trâu trong bộ tượng 12 con giáp bằng ngọc thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Ở Việt Nam, 12 cop Giáp gồm Tí (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Hổ), Mão (Mèo), Thìn (Rồng), Tị (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó), Hợi (Lợn), tương ứng với 12 chi trong lịch pháo Á Đông, dùng để tính thời gian theo chu kỳ quay của mặt trăng. 12 con giáp còn được dùng để liên kết các yếu tố liên quan đến vận mệnh, cuộc sống con người.
Không có mô tả ảnh.
Tượng sư tử / nghê chầu bằng gỗ sơn thiếp, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Sư tử nguyên là linh vật Phật giáo, được truyền vào Việt Nam theo sự du nhập của Phật giáo, nhưng được cải biến phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Từ thời Trần (thế kỷ 13 – 14), khi Nho giáo phát triển, Sư tử được chọn làm biểu tượng của sức mạnh vương quyền thì hình tượng Sư tử xuất hiện phổ biến ở nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, vừa đa dạng về đặc điểm hình thức vừa truyền tải nhiều ý nghĩa biểu tượng tốt đẹp khác nhau. Về đặc điểm tạo hình cơ bản có hai loại: hình Sư tử (các chi tiết hình thể của sư tử) và kết hợp đặc điểm Sư tử – Chó (đầu Sư tử, thân Chó). Trong đó, hình Sư tử xuất hiện ở mọi thời đại, trên nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Hình Sư tử – Chó ít nhất bắt đầu xuất hiện từ thời Lê sơ (thế kỷ 15), chủ yếu trên đồ thờ cúng, trong trang trí kiến trúc hoặc trong tư cách là linh vật trấn giữ…Cũng như các nước Á Đông, ở Việt Nam, Sư tử còn có tên gọi khác là Nghê. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, Sư tử được gọi là Nghê khi tạc làm bệ tượng Phật, là vật cưỡi của Văn Thù Bồ Tát, đội lư hương hoặc ngồi trên nắp đỉnh trầm, dù đều trong hình tướng Sư tử. Ở Việt Nam thì diễn biến khá phức tạp. Thông thường, linh vật này được gọi là Sư tử khi tạo theo hình tướng Sư tử, gọi là Nghê khi mang đặc điểm kết hợp của Sư tử và Chó. Tuy nhiên, nhiều khi, những hình sư tử nhỏ trong trang trí hoặc đồ thờ cúng cũng được gọi là Nghê hoặc Lân. Có những linh vật trong hình Sư tử – Chó, dân gian thường gọi là Nghê, nhưng trong văn bản chính thống ghi chép về việc tạo tác này vẫn gọi là Sư tử… Bệ tượng Phật tạo hình Sư tử thường gọi là “Sư tử tọa”, nhưng đôi khi cũng gọi là “Nghê tòa”, tục danh gọi là Ông Sấm…
Không có mô tả ảnh.
Tượng nghê bằng đất nung thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18, phát hiện tại An Lạc, Khoái Châu, Hưng Yên.
Không có mô tả ảnh.
Tượng nghê chầu làm bằng gốm men trắng và lục dùng làm đồ thờ cúng (trái) và Bình rót có quai hình nghê làm bằng gốm men lam xám dùng để đựng nước, rượu cúng (phải) thời Mạc, thế kỷ 16.
Không có mô tả ảnh.
Tượng sư tử / nghê bằng sành, thế kỷ 18 – 19. Dạng tượng này thường được gắn trên đầu hai trụ biểu các công trình kiến trúc cổ với chức năng trấn giữ, canh gác.
Không có mô tả ảnh.
Tượng sư tử trên ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo” bằng vàng, thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709).
Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người
Tượng sư tử trên các ấn làm bằng ngọc, cẩm thạch, thủy tinh thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Không có mô tả ảnh.
Tượng sư tử / nghê trên ấn làm bằng bạc thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Không có mô tả ảnh.
Hình sư tử / nghê gắn trên nắp đỉnh trầm làm bằng gốm mem rạn thời Lê Trung Hưng niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736).
Không có mô tả ảnh.
Cặp sư tử / nghê chầu làm bằng gỗ sơn thiếp thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.
Không có mô tả ảnh.
Hình sư tử hí tiền trên bình gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15, hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Đề tài sư tử hí tiền, sư tử hí cầu bắt đầu xuất hiện từ thời trần về sau, phổ biến và đạt tới đỉnh cao thời Lê Sơ, là hình ảnh biểu trưng của sự thái bình thịnh trị. Đây vốn là ý nghĩa của kỳ lân, được gán ghép cho sư tử.
Không có mô tả ảnh.
Tượng sư tử bằng đá cát của văn hóa Chămpa, thế kỷ 10, khai quật tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam.
Không có mô tả ảnh.
Tượng sư tử chầu bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 – 13.
Không có mô tả ảnh.
Đầu sư tử bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 – 13. Đây là vật trang trí kiến trúc hoặc làm đầu máng xối nước. Hình thức này xuất hiện phổ biến dưới thời Lý – Trần (thế kỷ 11 – 14).
Không có mô tả ảnh.
Cổ bệ tượng Phật chạm hình sư tử chầu ngọc bằng đá, thời Lý, thế kỷ 11 – 13. Đây là một phần trong kết cấu bệ tượng Phật, ở vị trí đỡ tòa sen cho Đức Phật ngồi, mô phỏng theo Phật thoại về con Kim Nghê (Sư tử lông vàng) bảo vệ Phật pháp. Hình thức nghệ thuật này phổ biến dưới thời Lý – Trần (thế kỷ 11 – 14).
Không có mô tả ảnh.
Voi đội bình làm bằng gốm men rạn, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Voi vốn là linh vật Phật giáo, tượng trưng cho chân lý, trí tuệ và sự kiên định. Đức Phật cũng từng được đầu thai dưới dạng Voi trắng trong giấc mơ của Hoàng hậu Maya. Voi còn là vật cưỡi của Phổ Hiền Bồ Tát. Với ý nghĩa như vậy, voi cũng hiện diện trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam. Đồng thời, voi còn là linh vật có sức mạnh trấn giữ khi đặt hai bên đường Thần đạo trước lăng mộ hoặc phủ phục trước cổng đền, miếu… Hình tượng voi xuất hiện trong đồ thờ cúng mang ý nghĩa tượng trưng cho sự kiên định và trong sạch.
Không có mô tả ảnh.
Tượng voi làm bằng đá cát của văn hóa Chămpa, thế kỷ 10, khai quật tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam.
Không có mô tả ảnh.
Tượng uyên ương bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 – 13. Theo Phật thoại, uyên ương là một trong các hóa thân của Đức Phật.
Trong nghệ thuật Việt, uyên ương xuất hiện phổ biến trong trang trí kiến trúc cung đình và chùa tháp thời Lý – Trần trong tư thế dang cánh đậu trên các viên ngói bò lợp mái.
Không có mô tả ảnh.
Cặp tượng rắn đầu người làm bằng gốm men trắng, thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.
Với người Việt, rắn là biểu tượng của Thần Nước, đại diện cho hai thành tố đối lập tốt và xấu. Tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt có tục thờ Rắn, mang ý niệm về sông nước của cư dân làm nông nghiệp. Nhìn chung, rắn ít xuất hiện trong nghệ thuật tạo hình. Trong văn hóa Champa, Rắn được gọi là Naga, vua của loài rắn, được du nhập vào theo Ấn Độ giáo. Naga là anh em họ và là kẻ thù của Chim thần Garuda. Bởi vậy, Naga thường được thể hiện trong hình thức bị chim Thần Garuda tiêu diệt.
Theo Kiến Thức
Lão Cổ Vật sưu tầm.

Để lại Đánh giá

Email của bạn sẽ được giữ kín, các trường cần điền sẽ đánh dấu *

Đánh giá*

Họ tên *

Email *

Tin liên quan

Chọn bài viết hiển thị
Xác Định Giá Trị Của Đồ Cổ

laocovat

Thứ Hai, 12 Tháng Mười Hai 2022

Xác Định Giá Trị Của Đồ Cổ
Đồ độc bản là gì?

laocovat

Thứ Hai, 12 Tháng Mười Hai 2022

Đồ độc bản là gì?
Tranh chữ PHÚC cỡ lớn
Chỉnh sửa ảnh liên kết

Địa Chỉ Cửa Hàng Chúng Tôi

Hotline: 098.13.02468

Email: contact@laocovat.com

Địa chỉ: 146 Nghi Tàm - Tây Hồ - Hà Nội