Thờ Cúng Trong Nhà Như Thế Nào Cho Đúng?
laocovat
Thứ Ba, 13 Tháng Mười Hai 2022
Việc khấn vái phải theo trật tự trên dưới rõ ràng. Phật có nguồn gốc từ con người, cho nên dù có phép thần thông quảng đại đi chăng nữa, thì cũng không ngoài vòng cương tỏa của Trời - Đất. Vậy thì khi khấn vái phải lạy Việt Nam Hoàng Thiên Hậu Thổ trước, Thần, Bụt, Thánh nước Nam. Tham khảo các bài sớ cúng của các dòng họ, tôi đều thấy các cụ xưa nhất loạt theo trật tự: Chư Thiên – Chư Địa – chư Thần – Chư Phật - Chư thánh – Thành hoàng làng – Gia Tiên trong lễ bái gia tiên.
Quay lại vấn đề chính đã nêu ra ở trên, để thờ cúng trong nhà bà con cần chuẩn bị những gì? - Xin thưa chúng ta cần:
1. Rường thờ
2. Hương án
3. Bài vị
4. Bát hương
5. Hoành phi
6. Đối liễn
7. Lễ vật (hương, đăng, hoa, quả, nước)
8. Sớ cúng
Và tôi sẽ giải thích ý nghĩa, phương cách thực hiện từng mục trên như sau:
Nhưng trước tiên tôi phải bàn về phương pháp khử tà khí và quy thần cho các vật dụng thờ cúng:
Bước 1: Trừ tà khí cho đồ vật:
Tất cả những thứ dùng để trên án thờ sau khi mua về thì đem ngâm rửa trong nước muối nồng độ 1 lít nước / 200gr muối. Cứ mỗi giờ thay một lần nước muối. Sau 3 giờ với 3 lần thay, ngâm bằng nước muối thì đem ra rửa sạch nước muối và lau khô. Nước muối có giá trị rất hữu hiệu để tẩy rửa tà khí, năng lượng xấu và những hóa chất độc hại do nhà sản xuất sử dụng trong chế tác.
Bước 2: Nạp thần khí cho đồ vật:
Đem đồ vật đã ngâm nước muối để lên một cài giàn. Giàn vừa đủ độ cao để có thể thắp hương bên dưới. Hương phải được cháy 24 /24 giờ trong suốt 7 ngày đêm. Khói hương phải tỏa được đều khắp đồ vật (có thể dùng hương vòng). Hàng ngày đến giờ Tý, chủ nhân đến chỗ xông hương khấn nguyện như sau:
- Cầu xin năng lượng thực tại tối hậu Việt Nam Hoàng Thiên Hậu Thổ. Cầu xin năng lượng linh thần Tam tài Định phúc Táo quân ngôi nhà số... Xin được chấp thuận và giúp cho gia chủ thâu nạp linh khí vũ trụ vào vật dụng thờ cúng.
- Cầu xin các chư vị gia tiên chấp thuận đồ vật thờ tự.
Việc xông hương phải được tiến hành 7 ngày đêm liên tục. Đối với án thờ trong ngôi nhà mới xây, tủ thờ mới mua về cũng vậy. Lau sạch sẽ bằng nước muối pha loãng (01 lít nước / 10 gr muối), đợi khô lại lau lại lần khác. Sau 3 lần lau nước muối thì xông hương 7 ngày đêm như trên rồi mới để đồ thờ tự lên làm lễ.
1. Rường thờ: có nơi gọi là giường thờ, gọi là giường thờ vì giường thờ vốn có mành hoặc rèm che, là nơi nghỉ ngơi của linh hồn tiên tổ. Nhưng vì giường là thứ dành cho người phàm tục, sợ phạm húy với tổ tiên, nên nhân dân gọi chệch thành “rường” chỉ khi cần thắp hương mới vén rèm lên. Khi xong rồi thì phải kéo rèm che kín lại không cho khách khứa nhìn thấy hương án, ngoại trừ ba ngày tết.
Phía trước cửa rường thờ, hai bên là hai câu đối, bên trên cùng là hoành phi, bên trong là hương án (bàn thờ), rường thờ được chia làm hai bậc cao thấp, trái phải, bên trái cao hơn một chút thờ ngũ vị tài thần, bên phải thấp hơn một chút thờ gia tiên; Hoặc phía sau cao hơn thờ tài thần, phía trước thấp hơn thờ gia tiên.
2. Hương án(香案) : “Án” là cái bàn, “hương án” là cái bàn để bày lễ vật thắp hương, nhân dân gọi nôm na là bàn thờ. Hiện nay các nhà ít khi có mành che nên có thể nói là không còn rường thờ mà chỉ có bàn thờ (hương án).
3. Bài vị (簰位)
“Bài” là cái thẻ bằng gỗ mỏng hay bằng giấy cứng có viết chữ trên đó. “Vị” là chỗ đứng. “Bài vị” còn được gọi là “Thần chủ”, là một tấm thẻ, trên đó có ghi đầy đủ tên họ người chết, năm sinh, ngày chết, chức tước, quê quán, dùng để tế lễ và thờ phụng.
Cách viết chữ lên bài vị:
- Chức danh của vị gia tiên được thờ phụng, ví dụ: Cao tổ khảo (kị), hoặc Tằng tổ khảo (cụ), Tổ khảo (ông); Hiền khảo (cha)
- Chức tước và công danh (nếu có) của vị gia tiên được thờ phụng;
- Tuổi thọ: nếu từ 60 tuổi đổ lại thì ghi hưởng dương, từ 61 trở lên mới ghi hưởng thọ
- Vai vế trong dòng họ: Con trưởng thì ghi họ rồi thêm “mạnh công”, nếu là con thứ thì ghi họ rồi thêm"trọng công", con út thì thêm “quý công”, sau đó mới tên huý của vị gia tiên.
Ví dụ: Người con trưởng có tên là Trần Văn An, sẽ được đề như sau:
- Hiền khảo / tiền đảng viên ĐCSVN-Đại tá quân đội nhân dân VN – Liệt sĩ chống Mỹ - Huân chương chiến công hạng nhất / hưởng dương ngụ tứ tuần Trần Mạnh Công tự Văn An phủ quân 1915 – 1968);
Xem thêm ở bài: “Cấu trúc thờ cúng trong nhà thờ họ và tổ chức tề lễ ”
4. Bát hương: Phương pháp làm bát hương hiện nay trong nhân dân thường phụ thuộc vào thầy cúng, hoặc thầy chùa. Có người nói sau khi làm bát hương phải được thầy chùa đem “Mật tông kinh” cầu nguyện làm phép mới linh, tôi e là không phải đối với những gia đình không là đệ tử cửa Phật?
Còn thầy cúng thì chẳng ai có thể kiểm nghiệm nổi thần thông quảng đại của thầy ở mức nào, mà chỉ thấy bát hương đắt đỏ thôi rồi, cho nên nhiều gia đình cũng than vãn “tiền mất tật mang”. Bởi vậy tôi mạnh dạn đưa lên đây phương pháp sắm sanh bát hương, ai tin tôi cứ theo mà làm. Thiết nghĩ, đạo nghĩa đã dạy việc thờ cúng phải làm theo tiếng gọi từ lương tâm, linh hồn có thể xâm nhập được vào trong trí não của mình để lắng nghe hư thực, nên có thờ ắt có thiêng mà không nhất thiết phải có “Mật tông kinh”. Chỉ cần ấn định danh phận cho vị gia tiên muốn thờ trong bát hương là đủ, cách làm bát hương như sau:
Chọn mua bát hương: Tuỳ theo khả năng tài chính có thể chọn đồ gốm hoặc đồ đồng. chữ khắc trên bát hương nên chọn chữ “Phước”. Hình con vật nên chọn một cặp rồng - phượng cùng châu vào biểu tượng của thái cực (vòng tròn âm dương). Chọn như vậy thì âm dương mới hài hoà, mới hỗ trợ cho sự sinh tồn vững bền của dòng tộc. Nếu bát hương chưa có biểu tượng âm dương thì vẽ nó lên giấy rồi dán bên dưới bát hương. Bát hương mua về phải rửa sạch bằng nước muối và nạp thần như hai bước hướng dẫn trên rồi mới để cốt hương vào.
Bỏ gì vào trong bát hương?
- Thần sa, chu sa: theo quan niệm của người xưa, thần sa, chu sa có khả năng từ tà khí, nghĩa là bát hương thỉnh cho vị gia tiên nào thì vị gia tiên đó hiển nhiên là chính khí hiển linh, tà khí không vào phá bát hương được. Thần sa, chu sa bà con có thể tìm đến tiệm thuốc đông y để mua, tuy nhiên tuyệt đối không được bỏ nhiều, mỗi bát hương chỉ khoảng 1 – 2gr.
- Tro: Dùng rơm sạch để đốt lấy tro, ở thành phố không có rơm thì mua thật nhiều hương, vàng mã về đốt lấy tro. Để tro thơm lâu, tăng thêm linh ứng, có thể mua thêm trầm hương, đinh hương, hồi hương, quế hương tán nhuyễn trộn vào với tro.
- Một chùm tua rua ngũ sắc nhỏ kết bằng 5 sợi chỉ năm màu (đỏ cam, vàng nâu, trắng, xanh lam, xám đen);
- Một tờ giấy mộc nhuộm đỏ viết nội dung giống như trên bài vị, nếu vị gia tiên được thờ phụng có mộ thì tốt nhất xin một chút đất mộ và rút ba chân hương ở mộ rước về càng linh; Nếu là bát hương chung thì lập danh sách tất cả những người muốn thờ cũng theo nội dung bài vị, hoặc ghi chung “Gia tộc hoặc chi tộc…(họ: Nguyễn Văn, Lê Huy…) bài vị linh thần”, rồi ghi thêm “Phúc lộc thọ toàn”;
- Tiền: Tốt nhất là hai đồng tiền đồng cổ. Nếu không có thì lấy một tờ xanh, một tờ đỏ tiền âm phủ thay thế cũng được.
- Đối với “thất bảo”, tôi chỉ thấy ở miền Nam ảnh hưởng của đạo Cao Đài, còn như Xứ Nghệ An đổ ra thì không có món này.
Gấp bài vị cho vuông vắn lại, rồi dùng một mảnh giấy trang kim (giấy kẽm tráng kim tuyến vàng mục đích là nhỡ có bị cháy cội hương, lớp giấy kẽm sẽ bảo vệ để bài vị không bị cháy lẫn vào cốt tro bên ngoài) gói tất cả các thứ: đất mộ, tiền, chỉ ngũ sắc, giấy bài vị, thần sa, chu sa tán bột mịn để vào, gói tờ giấy trang kim lại cho vuông vắn, để xuống dưới đáy bát hương, sau đó mới đổ tro lên cho đầy. Cắm 3 cội hương rước tứ ngoài mộ về, lau sạch bên ngoài và để trang nghiêm lên hương án, phía trước bài vị.
Chú ý: Bát hương mỗi khi được định vị trên hương án rồi thì kiêng kỵ bị xê dịch vị trí, gia đạo sẽ gặp chuyện chẳng hay. Do đó, nếu cẩn thận thì nên dùng keo hai mặt dính chặt xuống. mỗi năm chỉ được sửa sang bát hương từ sau 23 – 30 tháng chạp mà thôi.
Bát hương thờ ngũ vị tài thần theo phong tục thuần Việt hoàn toàn không giống với Trung Quốc. Ngũ vị tài thần của Việt Nam là Hoàng thiên, Hậu thổ, là vua trời vua đất của nước Việt và ba vị tam tài Đông trù tư mệnh Táo chủ thần quân chủ về cơm no áo ấm, sức khoẻ; Thổ địa long mạch tôn thần chủ về đất đai long mạch và sự tiềm ẩn của cải sinh sôi; Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần chủ về tiền tài, thóc gạo đã thu hoạch, gặt hái về (tôi đã có nói trong bài thờ cúng táo quân).
Đối với bát hương thờ ngũ vị tài thần, đứng trong nhà nhìn ra sân, trong khuôn viên đất nhà mình, thì bên trái là Thanh Long (long mạch chủ của khuôn đất). Tốt nhất là đào sâu xuống đến khi đụng phải nước mạch, lấy một chút đất lẫn nước ở đó, cùng với một chút tro giữa lòng bếp hợp lại trộn với thần sa, chu sa rồi cũng gói vào tờ giấy trang kim với tiền âm dương, tua rua ngũ sắc mà để xuống đáy bát hương trước khi đổ tro lên cho đầy. (Trong trường hợp nhà phố mua sẵn không thể đào sâu xuống tới mạch ngầm thì đành tạm chọn khu đất sạch trong khuôn viên, lấy đất dưới vài tấc cũng tạm được, tất nhiên là không tốt bằng đất long mạch).
(Ghi chú: Có bạn đọc hỏi tôi một câu rất thú vị: "Ở thành phố nấu bếp gas không có tro lòng bếp thì làm sao?" Tôi bèn đăng đàn để xin ý kiến Việt tiên linh và được đồng ý cách làm cải biên như sau: để một cái nồi rang lên bếp, bật bế lên, thả một ít vàng mã với muối hột vào đốt cháy thành tro, dùng tro đó thay thế).
Lập bát hương cho người mới mất: Thủ tục lập bát hương như đã hướng dẫn trên. Sau đó giờ Tý nửa đêm, đem bát hương ra để trên nóc nhà để gọi nhập hồn. Cách khấn như sau:
- Kính lạy Việt Nam Hoàng Thiên Hậu Thổ
- Kính lạy Đông trù tư mệnh Táo chủ thần quân, Thổ địa long mạch tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần
- Kính lạy Thành hoàng bản xứ... (tên địa phương cư ngụ)...
-Kính lạy Cao, Tằng, Tổ, khảo... Gia tiên nhà..... (Nguyễn Trọng, Lê Huy....chẳng hạn)...
Cho phép hồn .... về nhập nơi cư ngụ!
Tiếp đến, cầm nắm hương lạy bốn phương tám hương xong thì bắt đầu gọi hồn:
- Hú ba hồn bảy (chín) vía ...(họ tên người chết)... về nơi cư ngụ! (một lần gọi xong thì tách một cây hương huơ một vòng tròn lên trời rồi cắm vào bát hương. Nếu người chết là nam thì gọi 7 lần; nếu người chết là nữ thì gọi 9 lần. Gọi đủ số lần thì đem bát hương để trên vào vị trí bàn thờ lập cho người mới chết phía trước quan tài. Khi đưa tang phải rước di ảnh, bài vị và bát hương đi theo. Sau khi chôn cất thì thắp một nắm hương trên mộ, chờ cho cháy hết, rút ba chân hương cắm vào bát hương và rước cùng với bài vị và di ảnh trờ về lại nhà đặt lên bàn thờ riêng dành cho linh hồn mới mất. Bát hương của người mới chết phải chờ hết khó mới được nhập vào bàn thờ gia tiên.
Thủ tục nhập bát hương của người hết khó vào bàn thờ gia tiên:
Bước 1: Làm lễ cẩn cáo với gia tiên để xin phép
Bước 2: Hoặc là đem nguyên bát hương của người hết khó để lên vị trí được quy định cấp bậc trên bàn thờ gia tiên; hoặc là chỉ rút phần cốt hương và ba cội hương, một chút tro từ bát hương của người mới chết nhập vào bát hương thờ chung của gia tiên. Bát hương cũ đem thả xuống sông, hoặc chôn xuống đất. Coi như hoàn tất thủ tục nhập.
Mỗi nhà chỉ nên có tối đa 3-5 bát hương trên một rường thờ mà thôi: Một bát thờ ngũ vị tài thần để ở vị trí cao nhất (ngũ vị tài thần của người Việt Nam tôi đã nói ở trên); Một bát hương thờ gia tiên, Một bát hương thờ bà cô ông mãnh; gia đình nào mà dân chủ thì lập thêm một bát thờ đàng ngoại, bát hương này để ở vị trí thấp hơn một chút so với bên nội. Tuy nhiên tôi cũng nói rõ, nếu gia đình cư ngụ trên đất hương hoả của nhà nội, thì không thờ ngoại được, mà chỉ có những cặp vợ chồng tự mua đất tạo dựng cơ nghiệp thì mới có thể thờ ngoại.
Thủ tục thay mới bát hương
Nếu sau khi đọc xong bài này, bạn những muốn tự tay làm lại bát hương thờ phụng trong nhà mình, thì thủ tục thay mới như sau:
- Việc lập bát hương thờ phụng phải chọn ngày lành tháng tốt.
- Nếu muốn giữ lại bát hương cũ vì xét thấy còn tốt, thì đổ cốt cũ ra ngoài, đem bát hương ngâm 3 giờ trong nước muối mặn ( 1 lít nước / 2 lạng muối) để khử tà khí. Sau đó vớt lên rửa sạch bằng nước lã, lau khô thì có thể đổ cốt tro mới vào;
- Nếu muốn thay bát hương mới, thì đem chôn bát hương cũ xuống đất vườn, hoặc đem thả xuống sông suối có dòng nước chảy.
Chú ý: hai trường hợp trên đây chỉ dùng cho những gia đình mà chủ nhân tự lập bát hương nhưng chưa có cốt hương cụ thể; hoặc đã nhờ thầy lập bát hương, nhưng thờ phụng không thấy linh nghiệm, không chắc chắn cốt hương thời cái gì?
Riêng trường hợp, nếu là cốt hương là của gia tiên, tức do ông bà cha mẹ mình lập trước đây, thì không được bỏ đi, vì theo thời gian, tàn hương rơi xuống, khói hương ám vào, cũng thành linh thiêng rồi. Trường hợp này, khi thay thế, phải lấy một ít cốt tro và ba chân hương ở bát cũ đem sang bát mới. cốt tro còn lại đổ vào gốc cây trong vườn. Bát cũ đem chôn xuống đất, vườn
5. Hoành phi: là vật trang trí bên ngoài cho thêm phần trang trọng, cho nên có thì đẹp đẽ hơn lên, còn như chưa có điều kiện thì cũng không ảnh hưởng gì đến việc thờ cúng cả, đối liễn cũng vậy. Hoành phi còn gọi là “biển”, “bức hoành”, vốn là một bức thư họa. thay vì đối liễn được viết dọc, thì hoành phi được viết ngang, dạng như một câu khẩu hiệu ngắn khoảng 3 – 5 chữ treo ở phòng khách, nhà thờ…Thông thường hoành phi trang trí ngang bên trên, còn hai câu đối được treo dựng hai bên, ví dụ bức hoành phi dưới đây được treo ở bàn thờ gia tiên, hoặc ở nhà thờ tổ:
光留德
Đức lưu quang
(Đức độ tỏa sáng)
6. Đối liễn: Hay còn gọi là câu “đối liên” là những câu chữ Hán hay chữ Nôm, có nơi dùng chữ quốc ngữ viết từng cặp dọc đi đôi, và ý nghĩa cũng đi đôi, thể hiện trên chất liệu vải, gỗ, hoặc giấy, ví dụ như một số câu đối sau đây:
Mộc xuất thiên chi do hữu bản
Thủy lưu vạn phái tổ tùng nguyên
(Cây chung ngàn nhánh sinh từ gốc
Nước chảy muôn dòng phát tại nguồn)
Hoặc là:
Nhật nguyệt quang chiếu thập phương
Tổ tông lưu thùy vạn tuế
(Vầng nhật nguyệt mười phương rạng rỡ
Đức Tổ Tông muôn thuở sáng ngời)
Ái Quốc mạc vọng Tổ
Nhân dân tiên mục thân
(Yêu nước chớ nên quên Tổ tiên
Thương dân trước phải hòa thân thích)
7. Lễ vật:
- Thứ bắt buộc phải có khi thắp hương : Hương – đăng (đèn) – hoa – ngũ quả - nước lã (5 chén + một bình) - gạo - muối - trầu cau
- Vàng tiền thì cúng đốt vào các dịp trọng đại như tết, giỗ, ngoài ra thì rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng mười. Khi cúng tiền vàng, phải ghi rõ tên của vị gia tiên được hưởng lộc trước khi hoá vàng.
- Đối với cỗ mặn, to nhỏ tuỳ tâm và tuỳ khả năng tài chính của gia chủ, nhưng chỉ nên bày lên mâm, đặt lên một cái bàn riêng rẽ để phía trước bàn thờ với đầy đủ bát, đũa, thìa, muỗng, chén uống rượu như thể dọn mâm tiệc đãi khách. Chờ cho cháy hết 2/3 chân hương thì con cháu được phép phá cỗ.
8. Sớ cúng: Tôi có xem dăm ba cái sớ cúng của các dòng họ ở Nghệ Tĩnh, Tất cả đều một phom mẫu như nhau nội dung thế này:
Sớ Khấn lạy Trời Phật Thần Thánh
(mẫu)
Cung duy!
Việt Nam Cộng Sản Hoàng Triều
… tỉnh, … huyện, … xã / làng (phường / phố),…(số nhà)…cư gia (nếu ở Từ đường thì đọc …(họ)…Từ đường gia tộc)
- Kính lạy Việt Nam Hoàng thiên Hậu thổ quang linh (một vái)
- Kính lạy! Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân - Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần - Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chính Thần (một vái)
- Kính lạy các Chư vị Việt Thần Tiên anh minh bao lượng
- Kính lạy Thành hoàng bản địa.... (tên địa phương)... công minh chính trực
Tín chủ con là:
…. và gia quyến, cùng nhất tâm cúi lạy Chư Thiên, Chư Địa, Chư Thần, Chư Phật, Chư Thánh;
Cúi lạy Thành hoàng bản thổ đại vương thần thánh gia ân, cho phép gia quyến chúng con được mời Tổ tiên của chúng con về tại địa chỉ: … tỉnh, … huyện, … phố,…(số nhà)…cư gia (nếu ở Từ đường thì đọc Lê / Nguyễn / Trần.... Từ đường gia tộc) để bàn bạc việc gia đình đại sự là … (nói nguyện vọng của tín chủ)...
Lòng thành lễ mọn, hương đăng, hoa quả, trà rượu, thanh tước chi nghi, dâng bày ra trước hương án, kính cẩn lạy dâng, kính cáo chư vị linh thần, cúi mong soi xét cho chúng con được thể theo sở nguyện. Đồng thời cúi xin linh thiêng phù hộ độ trì cho chúng con khởi sự dược hanh thông mọi bề, phúc đức an lành, gia đạo vẹn toàn như ý.
Cẩn cáo ! (Ba lạy)
Sớ khấn gia tiên
(Mẫu: Sau khi khấn Trời Phật Thần Thánh)
Cận di phỉ lệ chi nghi cảm kính cáo vu:
(Hoặc nói theo Quốc Ngữ: Hương đăng hoa quả thanh tước chi nghi lên trước linh đài kính cẩn báo cáo!)
- Kính lạy : Nguyễn Trọng (Bùi Mạnh / Trần Quý, vv...) Cao, Tằng, Tổ, Khảo, bào huynh, bào đệ... (Chú ý: Tổ là ông, khảo là cha, bào huynh là anh trai, bào đệ là em trai, nếu chưa mất thì đừng nhỡ mồm khấn vào)
- Đồng kính lạy các chư vị Tiên cô, Tiên mãnh của gia đình / của chi họ
Hậu duệ con là Lê/Nguyễn/Bùi quý công … (tên đệm và tên chủ nhà)…cùng toàn thể gia quyến. Nay nhân …( lý do cúng: thỉnh bát hương / giỗ / rằm / tết…)…
Cây có cội, nước có nguồn, ơn Tiên Tổ vun trồng công đức.
Lòng thành lễ mọn, hương, đăng, hoa, quả, thanh tước chi nghi, dâng bày ra trước hương án, kính cẩn lạy dâng. Cúi xin các Vị Cao, Tằng, Tổ, Khảo / Cao, Tằng, Tổ, Tỉ, cùng các vị Đường Bá (bác), Đường Thúc (chú), Đường Cô (cô), Bào Huynh (anh trai), Bào Đệ (em trai)… chứng giám lòng thành, âm phù dương trợ, sở nguyện tòng tâm, cho phép tín chủ được cử hành lễ …( nói lý do dâng lễ và nguyện vọng của tín chủ)...
Muôn vàn đội ơn Gia tiên linh thiêng phù hộ độ trì cho hậu duệ cháu con được muôn đời Tấn phúc, tấn lộc, tấn tài, tấn bình an, gia đạo vạn sự vẹn toàn như ý!
Cẩn cáo !
9. Ai thì được thờ ai? Tại chương I - "Tìm lại dấu tích nhà nước Việt Thường Thị..." tôi đã có lý giải về việc tại sao người Việt Nam nhận mình là "con Rồng cháu Tiên". Ở đây tôi giải thích thêm Tiên cụ thể là những ai?
Tiên của người Việt không phải là các tiên nữ ở trên thượng đế. Người Việt gọi chức danh của những người đã khuất trong bài sớ như sau:
- Cha/mẹ thì gọi là hiền khảo/hiền tỉ
- Ông/bà thì gọi là tổ khảo/tổ tỉ
- Cụ thì gọi là tằng tổ khảo/tằng tổ tỉ
- Kị thì gọi là cao tổ khảo/cao tổ tỉ
- Và từ vị thân sinh của cao tổ khảo đổ về trước đến đời thứ 2 được gọi là Tiên tổ khảo. Theo đó, phu nhân của các vị này gọi là Tiên tổ tỉ
- Đời thứ nhất gọi là thuỷ tổ
(Coi thêm cách gọi các chức danh khác trong thờ cúng ở đây)
Như vậy có nghĩa là các vị được rước về thờ cúng trong từ đường họ tộc (thân sinh của cao tổ trở về các thế hệ trước) được gọi là tiên, từ cao tổ đổ xuống gọi là tổ. Tập quán người Việt có quy định rõ ràng vị trí thờ phụng, các bậc hàng tổ do mới mất, linh hồn còn lẫn khuất ở cõi âm ti, nên chưa dứt được ham muốn ăn uống, tiêu pha, cũng như nhu cầu tình cảm còn cao, nên việc thờ phụng được quy định để trong gia đình của chi trưởng, con trưởng, mục đích là để cho linh hồn hưởng thụ được không khí ấm cúng gia đình. Các bậc hàng Tiên là những linh hồn đã tu hành hết kiếp âm ti, đã được siêu thoát lên trời để tiếp tục sống kiếp thứ ba trong chu trình "nợ ba sinh". Khi ấy linh hồn không còn những ham muốn tục trần, ngược lại năng lực phù trợ cao, nên tộc trưởng phải đứng ra lập từ đường để quy tụ năng lực tiên linh, "âm phù dương trợ" cho họ mạc. Từ đạo lý trên, một số chi họ những muốn xây nhà thờ sớm cho các hàng tổ cần suy xét kỹ, kẻo lòng hiếu thảo phản tác dụng, những tưởng sang cả, nhưng chưa chắc đã thực tốt? Ngoài quy định về vị trí thờ phụng, thì tập tục người Việt cũng có quy định rõ ràng về cấp bậc được phép thờ phụng tiên tổ như sau:
- Trưởng tộc: phải thờ tất cả từ thuỷ tổ, tiên tổ và các vị cấp dưới từ cao tổ đổ xuống không còn ai thờ phụng;
- Trưởng chi họ (nhánh): phải thờ 4 đời gồm : Cao tổ của chi, và tằng tổ - tổ - khảo của nhà mình (cao tổ được lên tiên khi trong chi họ có thế hệ thờ cúng mới, ví dụ kViệc khấn vái phải theo trật tự trên dưới rõ ràng. Phật có nguồn gốc từ con người, cho nên dù có phép thần thông quảng đại đi chăng nữa, thì cũng không ngoài vòng cương tỏa của Trời - Đất. Vậy thì khi khấn vái phải lạy Việt Nam Hoàng Thiên Hậu Thổ trước, Thần, Bụt, Thánh nước Nam. Tham khảo các bài sớ cúng của các dòng họ, tôi đều thấy các cụ xưa nhất loạt theo trật tự: Chư Thiên – Chư Địa – chư Thần – Chư Phật - Chư thánh – Thành hoàng làng – Gia Tiên trong lễ bái gia tiên.
Quay lại vấn đề chính đã nêu ra ở trên, để thờ cúng trong nhà bà con cần chuẩn bị những gì? - Xin thưa chúng ta cần:
1. Rường thờ
2. Hương án
3. Bài vị
4. Bát hương
5. Hoành phi
6. Đối liễn
7. Lễ vật (hương, đăng, hoa, quả, nước)
8. Sớ cúng
Và tôi sẽ giải thích ý nghĩa, phương cách thực hiện từng mục trên như sau:
Nhưng trước tiên tôi phải bàn về phương pháp khử tà khí và quy thần cho các vật dụng thờ cúng:
Bước 1: Trừ tà khí cho đồ vật:
Tất cả những thứ dùng để trên án thờ sau khi mua về thì đem ngâm rửa trong nước muối nồng độ 1 lít nước / 200gr muối. Cứ mỗi giờ thay một lần nước muối. Sau 3 giờ với 3 lần thay, ngâm bằng nước muối thì đem ra rửa sạch nước muối và lau khô. Nước muối có giá trị rất hữu hiệu để tẩy rửa tà khí, năng lượng xấu và những hóa chất độc hại do nhà sản xuất sử dụng trong chế tác.
Bước 2: Nạp thần khí cho đồ vật:
Đem đồ vật đã ngâm nước muối để lên một cài giàn. Giàn vừa đủ độ cao để có thể thắp hương bên dưới. Hương phải được cháy 24 /24 giờ trong suốt 7 ngày đêm. Khói hương phải tỏa được đều khắp đồ vật (có thể dùng hương vòng). Hàng ngày đến giờ Tý, chủ nhân đến chỗ xông hương khấn nguyện như sau:
- Cầu xin năng lượng thực tại tối hậu Việt Nam Hoàng Thiên Hậu Thổ. Cầu xin năng lượng linh thần Tam tài Định phúc Táo quân ngôi nhà số... Xin được chấp thuận và giúp cho gia chủ thâu nạp linh khí vũ trụ vào vật dụng thờ cúng.
- Cầu xin các chư vị gia tiên chấp thuận đồ vật thờ tự.
Việc xông hương phải được tiến hành 7 ngày đêm liên tục. Đối với án thờ trong ngôi nhà mới xây, tủ thờ mới mua về cũng vậy. Lau sạch sẽ bằng nước muối pha loãng (01 lít nước / 10 gr muối), đợi khô lại lau lại lần khác. Sau 3 lần lau nước muối thì xông hương 7 ngày đêm như trên rồi mới để đồ thờ tự lên làm lễ.
1. Rường thờ: có nơi gọi là giường thờ, gọi là giường thờ vì giường thờ vốn có mành hoặc rèm che, là nơi nghỉ ngơi của linh hồn tiên tổ. Nhưng vì giường là thứ dành cho người phàm tục, sợ phạm húy với tổ tiên, nên nhân dân gọi chệch thành “rường” chỉ khi cần thắp hương mới vén rèm lên. Khi xong rồi thì phải kéo rèm che kín lại không cho khách khứa nhìn thấy hương án, ngoại trừ ba ngày tết.
Phía trước cửa rường thờ, hai bên là hai câu đối, bên trên cùng là hoành phi, bên trong là hương án (bàn thờ), rường thờ được chia làm hai bậc cao thấp, trái phải, bên trái cao hơn một chút thờ ngũ vị tài thần, bên phải thấp hơn một chút thờ gia tiên; Hoặc phía sau cao hơn thờ tài thần, phía trước thấp hơn thờ gia tiên.
2. Hương án(香案) : “Án” là cái bàn, “hương án” là cái bàn để bày lễ vật thắp hương, nhân dân gọi nôm na là bàn thờ. Hiện nay các nhà ít khi có mành che nên có thể nói là không còn rường thờ mà chỉ có bàn thờ (hương án).
3. Bài vị (簰位)
“Bài” là cái thẻ bằng gỗ mỏng hay bằng giấy cứng có viết chữ trên đó. “Vị” là chỗ đứng. “Bài vị” còn được gọi là “Thần chủ”, là một tấm thẻ, trên đó có ghi đầy đủ tên họ người chết, năm sinh, ngày chết, chức tước, quê quán, dùng để tế lễ và thờ phụng.
Cách viết chữ lên bài vị:
- Chức danh của vị gia tiên được thờ phụng, ví dụ: Cao tổ khảo (kị), hoặc Tằng tổ khảo (cụ), Tổ khảo (ông); Hiền khảo (cha)
- Chức tước và công danh (nếu có) của vị gia tiên được thờ phụng;
- Tuổi thọ: nếu từ 60 tuổi đổ lại thì ghi hưởng dương, từ 61 trở lên mới ghi hưởng thọ
- Vai vế trong dòng họ: Con trưởng thì ghi họ rồi thêm “mạnh công”, nếu là con thứ thì ghi họ rồi thêm"trọng công", con út thì thêm “quý công”, sau đó mới tên huý của vị gia tiên.
Ví dụ: Người con trưởng có tên là Trần Văn An, sẽ được đề như sau:
- Hiền khảo / tiền đảng viên ĐCSVN-Đại tá quân đội nhân dân VN – Liệt sĩ chống Mỹ - Huân chương chiến công hạng nhất / hưởng dương ngụ tứ tuần Trần Mạnh Công tự Văn An phủ quân 1915 – 1968);
Xem thêm ở bài: “Cấu trúc thờ cúng trong nhà thờ họ và tổ chức tề lễ ”
4. Bát hương: Phương pháp làm bát hương hiện nay trong nhân dân thường phụ thuộc vào thầy cúng, hoặc thầy chùa. Có người nói sau khi làm bát hương phải được thầy chùa đem “Mật tông kinh” cầu nguyện làm phép mới linh, tôi e là không phải đối với những gia đình không là đệ tử cửa Phật?
Còn thầy cúng thì chẳng ai có thể kiểm nghiệm nổi thần thông quảng đại của thầy ở mức nào, mà chỉ thấy bát hương đắt đỏ thôi rồi, cho nên nhiều gia đình cũng than vãn “tiền mất tật mang”. Bởi vậy tôi mạnh dạn đưa lên đây phương pháp sắm sanh bát hương, ai tin tôi cứ theo mà làm. Thiết nghĩ, đạo nghĩa đã dạy việc thờ cúng phải làm theo tiếng gọi từ lương tâm, linh hồn có thể xâm nhập được vào trong trí não của mình để lắng nghe hư thực, nên có thờ ắt có thiêng mà không nhất thiết phải có “Mật tông kinh”. Chỉ cần ấn định danh phận cho vị gia tiên muốn thờ trong bát hương là đủ, cách làm bát hương như sau:
Chọn mua bát hương: Tuỳ theo khả năng tài chính có thể chọn đồ gốm hoặc đồ đồng. chữ khắc trên bát hương nên chọn chữ “Phước”. Hình con vật nên chọn một cặp rồng - phượng cùng châu vào biểu tượng của thái cực (vòng tròn âm dương). Chọn như vậy thì âm dương mới hài hoà, mới hỗ trợ cho sự sinh tồn vững bền của dòng tộc. Nếu bát hương chưa có biểu tượng âm dương thì vẽ nó lên giấy rồi dán bên dưới bát hương. Bát hương mua về phải rửa sạch bằng nước muối và nạp thần như hai bước hướng dẫn trên rồi mới để cốt hương vào.
Bỏ gì vào trong bát hương?
- Thần sa, chu sa: theo quan niệm của người xưa, thần sa, chu sa có khả năng từ tà khí, nghĩa là bát hương thỉnh cho vị gia tiên nào thì vị gia tiên đó hiển nhiên là chính khí hiển linh, tà khí không vào phá bát hương được. Thần sa, chu sa bà con có thể tìm đến tiệm thuốc đông y để mua, tuy nhiên tuyệt đối không được bỏ nhiều, mỗi bát hương chỉ khoảng 1 – 2gr.
- Tro: Dùng rơm sạch để đốt lấy tro, ở thành phố không có rơm thì mua thật nhiều hương, vàng mã về đốt lấy tro. Để tro thơm lâu, tăng thêm linh ứng, có thể mua thêm trầm hương, đinh hương, hồi hương, quế hương tán nhuyễn trộn vào với tro.
- Một chùm tua rua ngũ sắc nhỏ kết bằng 5 sợi chỉ năm màu (đỏ cam, vàng nâu, trắng, xanh lam, xám đen);
- Một tờ giấy mộc nhuộm đỏ viết nội dung giống như trên bài vị, nếu vị gia tiên được thờ phụng có mộ thì tốt nhất xin một chút đất mộ và rút ba chân hương ở mộ rước về càng linh; Nếu là bát hương chung thì lập danh sách tất cả những người muốn thờ cũng theo nội dung bài vị, hoặc ghi chung “Gia tộc hoặc chi tộc…(họ: Nguyễn Văn, Lê Huy…) bài vị linh thần”, rồi ghi thêm “Phúc lộc thọ toàn”;
- Tiền: Tốt nhất là hai đồng tiền đồng cổ. Nếu không có thì lấy một tờ xanh, một tờ đỏ tiền âm phủ thay thế cũng được.
- Đối với “thất bảo”, tôi chỉ thấy ở miền Nam ảnh hưởng của đạo Cao Đài, còn như Xứ Nghệ An đổ ra thì không có món này.
Gấp bài vị cho vuông vắn lại, rồi dùng một mảnh giấy trang kim (giấy kẽm tráng kim tuyến vàng mục đích là nhỡ có bị cháy cội hương, lớp giấy kẽm sẽ bảo vệ để bài vị không bị cháy lẫn vào cốt tro bên ngoài) gói tất cả các thứ: đất mộ, tiền, chỉ ngũ sắc, giấy bài vị, thần sa, chu sa tán bột mịn để vào, gói tờ giấy trang kim lại cho vuông vắn, để xuống dưới đáy bát hương, sau đó mới đổ tro lên cho đầy. Cắm 3 cội hương rước tứ ngoài mộ về, lau sạch bên ngoài và để trang nghiêm lên hương án, phía trước bài vị.
Chú ý: Bát hương mỗi khi được định vị trên hương án rồi thì kiêng kỵ bị xê dịch vị trí, gia đạo sẽ gặp chuyện chẳng hay. Do đó, nếu cẩn thận thì nên dùng keo hai mặt dính chặt xuống. mỗi năm chỉ được sửa sang bát hương từ sau 23 – 30 tháng chạp mà thôi.
Bát hương thờ ngũ vị tài thần theo phong tục thuần Việt hoàn toàn không giống với Trung Quốc. Ngũ vị tài thần của Việt Nam là Hoàng thiên, Hậu thổ, là vua trời vua đất của nước Việt và ba vị tam tài Đông trù tư mệnh Táo chủ thần quân chủ về cơm no áo ấm, sức khoẻ; Thổ địa long mạch tôn thần chủ về đất đai long mạch và sự tiềm ẩn của cải sinh sôi; Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần chủ về tiền tài, thóc gạo đã thu hoạch, gặt hái về (tôi đã có nói trong bài thờ cúng táo quân).
Đối với bát hương thờ ngũ vị tài thần, đứng trong nhà nhìn ra sân, trong khuôn viên đất nhà mình, thì bên trái là Thanh Long (long mạch chủ của khuôn đất). Tốt nhất là đào sâu xuống đến khi đụng phải nước mạch, lấy một chút đất lẫn nước ở đó, cùng với một chút tro giữa lòng bếp hợp lại trộn với thần sa, chu sa rồi cũng gói vào tờ giấy trang kim với tiền âm dương, tua rua ngũ sắc mà để xuống đáy bát hương trước khi đổ tro lên cho đầy. (Trong trường hợp nhà phố mua sẵn không thể đào sâu xuống tới mạch ngầm thì đành tạm chọn khu đất sạch trong khuôn viên, lấy đất dưới vài tấc cũng tạm được, tất nhiên là không tốt bằng đất long mạch).
(Ghi chú: Có bạn đọc hỏi tôi một câu rất thú vị: "Ở thành phố nấu bếp gas không có tro lòng bếp thì làm sao?" Tôi bèn đăng đàn để xin ý kiến Việt tiên linh và được đồng ý cách làm cải biên như sau: để một cái nồi rang lên bếp, bật bế lên, thả một ít vàng mã với muối hột vào đốt cháy thành tro, dùng tro đó thay thế).
Lập bát hương cho người mới mất: Thủ tục lập bát hương như đã hướng dẫn trên. Sau đó giờ Tý nửa đêm, đem bát hương ra để trên nóc nhà để gọi nhập hồn. Cách khấn như sau:
- Kính lạy Việt Nam Hoàng Thiên Hậu Thổ
- Kính lạy Đông trù tư mệnh Táo chủ thần quân, Thổ địa long mạch tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần
- Kính lạy Thành hoàng bản xứ... (tên địa phương cư ngụ)...
-Kính lạy Cao, Tằng, Tổ, khảo... Gia tiên nhà..... (Nguyễn Trọng, Lê Huy....chẳng hạn)...
Cho phép hồn .... về nhập nơi cư ngụ!
Tiếp đến, cầm nắm hương lạy bốn phương tám hương xong thì bắt đầu gọi hồn:
- Hú ba hồn bảy (chín) vía ...(họ tên người chết)... về nơi cư ngụ! (một lần gọi xong thì tách một cây hương huơ một vòng tròn lên trời rồi cắm vào bát hương. Nếu người chết là nam thì gọi 7 lần; nếu người chết là nữ thì gọi 9 lần. Gọi đủ số lần thì đem bát hương để trên vào vị trí bàn thờ lập cho người mới chết phía trước quan tài. Khi đưa tang phải rước di ảnh, bài vị và bát hương đi theo. Sau khi chôn cất thì thắp một nắm hương trên mộ, chờ cho cháy hết, rút ba chân hương cắm vào bát hương và rước cùng với bài vị và di ảnh trờ về lại nhà đặt lên bàn thờ riêng dành cho linh hồn mới mất. Bát hương của người mới chết phải chờ hết khó mới được nhập vào bàn thờ gia tiên.
Thủ tục nhập bát hương của người hết khó vào bàn thờ gia tiên:
Bước 1: Làm lễ cẩn cáo với gia tiên để xin phép
Bước 2: Hoặc là đem nguyên bát hương của người hết khó để lên vị trí được quy định cấp bậc trên bàn thờ gia tiên; hoặc là chỉ rút phần cốt hương và ba cội hương, một chút tro từ bát hương của người mới chết nhập vào bát hương thờ chung của gia tiên. Bát hương cũ đem thả xuống sông, hoặc chôn xuống đất. Coi như hoàn tất thủ tục nhập.
Mỗi nhà chỉ nên có tối đa 3-5 bát hương trên một rường thờ mà thôi: Một bát thờ ngũ vị tài thần để ở vị trí cao nhất (ngũ vị tài thần của người Việt Nam tôi đã nói ở trên); Một bát hương thờ gia tiên, Một bát hương thờ bà cô ông mãnh; gia đình nào mà dân chủ thì lập thêm một bát thờ đàng ngoại, bát hương này để ở vị trí thấp hơn một chút so với bên nội. Tuy nhiên tôi cũng nói rõ, nếu gia đình cư ngụ trên đất hương hoả của nhà nội, thì không thờ ngoại được, mà chỉ có những cặp vợ chồng tự mua đất tạo dựng cơ nghiệp thì mới có thể thờ ngoại.
Thủ tục thay mới bát hương
Nếu sau khi đọc xong bài này, bạn những muốn tự tay làm lại bát hương thờ phụng trong nhà mình, thì thủ tục thay mới như sau:
- Việc lập bát hương thờ phụng phải chọn ngày lành tháng tốt.
- Nếu muốn giữ lại bát hương cũ vì xét thấy còn tốt, thì đổ cốt cũ ra ngoài, đem bát hương ngâm 3 giờ trong nước muối mặn ( 1 lít nước / 2 lạng muối) để khử tà khí. Sau đó vớt lên rửa sạch bằng nước lã, lau khô thì có thể đổ cốt tro mới vào;
- Nếu muốn thay bát hương mới, thì đem chôn bát hương cũ xuống đất vườn, hoặc đem thả xuống sông suối có dòng nước chảy.
Chú ý: hai trường hợp trên đây chỉ dùng cho những gia đình mà chủ nhân tự lập bát hương nhưng chưa có cốt hương cụ thể; hoặc đã nhờ thầy lập bát hương, nhưng thờ phụng không thấy linh nghiệm, không chắc chắn cốt hương thời cái gì?
Riêng trường hợp, nếu là cốt hương là của gia tiên, tức do ông bà cha mẹ mình lập trước đây, thì không được bỏ đi, vì theo thời gian, tàn hương rơi xuống, khói hương ám vào, cũng thành linh thiêng rồi. Trường hợp này, khi thay thế, phải lấy một ít cốt tro và ba chân hương ở bát cũ đem sang bát mới. cốt tro còn lại đổ vào gốc cây trong vườn. Bát cũ đem chôn xuống đất, vườn
5. Hoành phi: là vật trang trí bên ngoài cho thêm phần trang trọng, cho nên có thì đẹp đẽ hơn lên, còn như chưa có điều kiện thì cũng không ảnh hưởng gì đến việc thờ cúng cả, đối liễn cũng vậy. Hoành phi còn gọi là “biển”, “bức hoành”, vốn là một bức thư họa. thay vì đối liễn được viết dọc, thì hoành phi được viết ngang, dạng như một câu khẩu hiệu ngắn khoảng 3 – 5 chữ treo ở phòng khách, nhà thờ…Thông thường hoành phi trang trí ngang bên trên, còn hai câu đối được treo dựng hai bên, ví dụ bức hoành phi dưới đây được treo ở bàn thờ gia tiên, hoặc ở nhà thờ tổ:
光留德
Đức lưu quang
(Đức độ tỏa sáng)
6. Đối liễn: Hay còn gọi là câu “đối liên” là những câu chữ Hán hay chữ Nôm, có nơi dùng chữ quốc ngữ viết từng cặp dọc đi đôi, và ý nghĩa cũng đi đôi, thể hiện trên chất liệu vải, gỗ, hoặc giấy, ví dụ như một số câu đối sau đây:
Mộc xuất thiên chi do hữu bản
Thủy lưu vạn phái tổ tùng nguyên
(Cây chung ngàn nhánh sinh từ gốc
Nước chảy muôn dòng phát tại nguồn)
Hoặc là:
Nhật nguyệt quang chiếu thập phương
Tổ tông lưu thùy vạn tuế
(Vầng nhật nguyệt mười phương rạng rỡ
Đức Tổ Tông muôn thuở sáng ngời)
Ái Quốc mạc vọng Tổ
Nhân dân tiên mục thân
(Yêu nước chớ nên quên Tổ tiên
Thương dân trước phải hòa thân thích)
7. Lễ vật:
- Thứ bắt buộc phải có khi thắp hương : Hương – đăng (đèn) – hoa – ngũ quả - nước lã (5 chén + một bình) - gạo - muối - trầu cau
- Vàng tiền thì cúng đốt vào các dịp trọng đại như tết, giỗ, ngoài ra thì rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng mười. Khi cúng tiền vàng, phải ghi rõ tên của vị gia tiên được hưởng lộc trước khi hoá vàng.
- Đối với cỗ mặn, to nhỏ tuỳ tâm và tuỳ khả năng tài chính của gia chủ, nhưng chỉ nên bày lên mâm, đặt lên một cái bàn riêng rẽ để phía trước bàn thờ với đầy đủ bát, đũa, thìa, muỗng, chén uống rượu như thể dọn mâm tiệc đãi khách. Chờ cho cháy hết 2/3 chân hương thì con cháu được phép phá cỗ.
8. Sớ cúng: Tôi có xem dăm ba cái sớ cúng của các dòng họ ở Nghệ Tĩnh, Tất cả đều một phom mẫu như nhau nội dung thế này:
Sớ Khấn lạy Trời Phật Thần Thánh
(mẫu)
Cung duy!
Việt Nam Cộng Sản Hoàng Triều
… tỉnh, … huyện, … xã / làng (phường / phố),…(số nhà)…cư gia (nếu ở Từ đường thì đọc …(họ)…Từ đường gia tộc)
- Kính lạy Việt Nam Hoàng thiên Hậu thổ quang linh (một vái)
- Kính lạy! Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân - Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần - Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chính Thần (một vái)
- Kính lạy các Chư vị Việt Thần Tiên anh minh bao lượng
- Kính lạy Thành hoàng bản địa.... (tên địa phương)... công minh chính trực
Tín chủ con là:
…. và gia quyến, cùng nhất tâm cúi lạy Chư Thiên, Chư Địa, Chư Thần, Chư Phật, Chư Thánh;
Cúi lạy Thành hoàng bản thổ đại vương thần thánh gia ân, cho phép gia quyến chúng con được mời Tổ tiên của chúng con về tại địa chỉ: … tỉnh, … huyện, … phố,…(số nhà)…cư gia (nếu ở Từ đường thì đọc Lê / Nguyễn / Trần.... Từ đường gia tộc) để bàn bạc việc gia đình đại sự là … (nói nguyện vọng của tín chủ)...
Lòng thành lễ mọn, hương đăng, hoa quả, trà rượu, thanh tước chi nghi, dâng bày ra trước hương án, kính cẩn lạy dâng, kính cáo chư vị linh thần, cúi mong soi xét cho chúng con được thể theo sở nguyện. Đồng thời cúi xin linh thiêng phù hộ độ trì cho chúng con khởi sự dược hanh thông mọi bề, phúc đức an lành, gia đạo vẹn toàn như ý.
Cẩn cáo ! (Ba lạy)
Sớ khấn gia tiên
(Mẫu: Sau khi khấn Trời Phật Thần Thánh)
Cận di phỉ lệ chi nghi cảm kính cáo vu:
(Hoặc nói theo Quốc Ngữ: Hương đăng hoa quả thanh tước chi nghi lên trước linh đài kính cẩn báo cáo!)
- Kính lạy : Nguyễn Trọng (Bùi Mạnh / Trần Quý, vv...) Cao, Tằng, Tổ, Khảo, bào huynh, bào đệ... (Chú ý: Tổ là ông, khảo là cha, bào huynh là anh trai, bào đệ là em trai, nếu chưa mất thì đừng nhỡ mồm khấn vào)
- Đồng kính lạy các chư vị Tiên cô, Tiên mãnh của gia đình / của chi họ
Hậu duệ con là Lê/Nguyễn/Bùi quý công … (tên đệm và tên chủ nhà)…cùng toàn thể gia quyến. Nay nhân …( lý do cúng: thỉnh bát hương / giỗ / rằm / tết…)…
Cây có cội, nước có nguồn, ơn Tiên Tổ vun trồng công đức.
Lòng thành lễ mọn, hương, đăng, hoa, quả, thanh tước chi nghi, dâng bày ra trước hương án, kính cẩn lạy dâng. Cúi xin các Vị Cao, Tằng, Tổ, Khảo / Cao, Tằng, Tổ, Tỉ, cùng các vị Đường Bá (bác), Đường Thúc (chú), Đường Cô (cô), Bào Huynh (anh trai), Bào Đệ (em trai)… chứng giám lòng thành, âm phù dương trợ, sở nguyện tòng tâm, cho phép tín chủ được cử hành lễ …( nói lý do dâng lễ và nguyện vọng của tín chủ)...
Muôn vàn đội ơn Gia tiên linh thiêng phù hộ độ trì cho hậu duệ cháu con được muôn đời Tấn phúc, tấn lộc, tấn tài, tấn bình an, gia đạo vạn sự vẹn toàn như ý!
Cẩn cáo !
9. Ai thì được thờ ai? Tại chương I - "Tìm lại dấu tích nhà nước Việt Thường Thị..." tôi đã có lý giải về việc tại sao người Việt Nam nhận mình là "con Rồng cháu Tiên". Ở đây tôi giải thích thêm Tiên cụ thể là những ai?
Tiên của người Việt không phải là các tiên nữ ở trên thượng đế. Người Việt gọi chức danh của những người đã khuất trong bài sớ như sau:
- Cha/mẹ thì gọi là hiền khảo/hiền tỉ
- Ông/bà thì gọi là tổ khảo/tổ tỉ
- Cụ thì gọi là tằng tổ khảo/tằng tổ tỉ
- Kị thì gọi là cao tổ khảo/cao tổ tỉ
- Và từ vị thân sinh của cao tổ khảo đổ về trước đến đời thứ 2 được gọi là Tiên tổ khảo. Theo đó, phu nhân của các vị này gọi là Tiên tổ tỉ
- Đời thứ nhất gọi là thuỷ tổ
(Coi thêm cách gọi các chức danh khác trong thờ cúng ở đây)
Như vậy có nghĩa là các vị được rước về thờ cúng trong từ đường họ tộc (thân sinh của cao tổ trở về các thế hệ trước) được gọi là tiên, từ cao tổ đổ xuống gọi là tổ. Tập quán người Việt có quy định rõ ràng vị trí thờ phụng, các bậc hàng tổ do mới mất, linh hồn còn lẫn khuất ở cõi âm ti, nên chưa dứt được ham muốn ăn uống, tiêu pha, cũng như nhu cầu tình cảm còn cao, nên việc thờ phụng được quy định để trong gia đình của chi trưởng, con trưởng, mục đích là để cho linh hồn hưởng thụ được không khí ấm cúng gia đình. Các bậc hàng Tiên là những linh hồn đã tu hành hết kiếp âm ti, đã được siêu thoát lên trời để tiếp tục sống kiếp thứ ba trong chu trình "nợ ba sinh". Khi ấy linh hồn không còn những ham muốn tục trần, ngược lại năng lực phù trợ cao, nên tộc trưởng phải đứng ra lập từ đường để quy tụ năng lực tiên linh, "âm phù dương trợ" cho họ mạc. Từ đạo lý trên, một số chi họ những muốn xây nhà thờ sớm cho các hàng tổ cần suy xét kỹ, kẻo lòng hiếu thảo phản tác dụng, những tưởng sang cả, nhưng chưa chắc đã thực tốt? Ngoài quy định về vị trí thờ phụng, thì tập tục người Việt cũng có quy định rõ ràng về cấp bậc được phép thờ phụng tiên tổ như sau:
- Trưởng tộc: phải thờ tất cả từ thuỷ tổ, tiên tổ và các vị cấp dưới từ cao tổ đổ xuống không còn ai thờ phụng;
- Trưởng chi họ (nhánh): phải thờ 4 đời gồm : Cao tổ của chi, và tằng tổ - tổ - khảo của nhà mình (cao tổ được lên tiên khi trong chi họ có thế hệ thờ cúng mới, ví dụ khảo chết thì con trưởng đảm nhiệm ngôi vị thờ cúng, lúc đó Cao tổ khảo được rước bài vị sang nhà thờ tộc để làm lễ lên tiên. Sách phong tục của Phan Kế Bính có nói, nếu dòng họ nào chưa có nơi thờ tự dòng tộc chính thống, thì bài vị tiên tổ được xếp cất vào một hòm gỗ không tiếp tục thờ phụng nữa. Điều này cần xem xét lại, tôi có đăng đàn hỏi chư vị Việt tiên linh mà tôi thờ phụng trong nhà mình thì được trả lời vẫn có nhu cầu được hậu duệ hương khói bình thường);
- Con trưởng trong gia đình thì thờ 3 đời: Tằng – tổ - khảo
- Con thứ trong gia đình thì chỉ thờ khảo, hoặc tổ - khảo mà thôi
Như vậy là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ giới thiệu về phương pháp thờ cúng trong gia đình. Hy vọng ai đã quan tâm thì nên đọc cho kỹ, hiểu cho thấu đáo để thờ phụng cho đúng ý nghĩa, thoát khỏi sự u mê của các thầy cúng bày trò dị đoan lừa tiền dân chúng. Tu tâm mà giữ lấy cái chân thiện mỹ, cái phước đức lâu bền cho gia đình, cho dòng họ được hưng thịnh muôn đời. hảo chết thì con trưởng đảm nhiệm ngôi vị thờ cúng, lúc đó Cao tổ khảo được rước bài vị sang nhà thờ tộc để làm lễ lên tiên. Sách phong tục của Phan Kế Bính có nói, nếu dòng họ nào chưa có nơi thờ tự dòng tộc chính thống, thì bài vị tiên tổ được xếp cất vào một hòm gỗ không tiếp tục thờ phụng nữa. Điều này cần xem xét lại, tôi có đăng đàn hỏi chư vị Việt tiên linh mà tôi thờ phụng trong nhà mình thì được trả lời vẫn có nhu cầu được hậu duệ hương khói bình thường);
- Con trưởng trong gia đình thì thờ 3 đời: Tằng – tổ - khảo
- Con thứ trong gia đình thì chỉ thờ khảo, hoặc tổ - khảo mà thôi
Như vậy là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ giới thiệu về phương pháp thờ cúng trong gia đình. Hy vọng ai đã quan tâm thì nên đọc cho kỹ, hiểu cho thấu đáo để thờ phụng cho đúng ý nghĩa, thoát khỏi sự u mê của các thầy cúng bày trò dị đoan lừa tiền dân chúng. Tu tâm mà giữ lấy cái chân thiện mỹ, cái phước đức lâu bền cho gia đình, cho dòng họ được hưng thịnh muôn đời.
Tin liên quan
laocovat
Thứ Ba, 13 Tháng Mười Hai 2022
laocovat
Thứ Ba, 13 Tháng Mười Hai 2022
Địa Chỉ Cửa Hàng Chúng Tôi
Hotline: 098.13.02468
Email: contact@laocovat.com
Địa chỉ: 146 Nghi Tàm - Tây Hồ - Hà Nội